Tên tiếng Anh: Lawrence Ng
Tên tiếng Hoa: 吳啟華 (吴启华)
Tên phiên âm: Ng Kai Wah/Wu Qi Hua
Tên tiếng Việt: Ngô Khải Hoa
Ngày sinh: 19/05/1964
Nơi sinh: Hongkong
Nguyên quán: Quảng Đông - Trung Quốc
Chiều cao: 182cm
Cân nặng: 70kg
Chòm sao: Taurus
Cung sinh: Dragon
Nhóm máu: A
Ngôn ngữ: Tiếng Quảng, tiếng Phổ Thông, tiếng Anh và tiếng Thái
Gia đình: Anh trai - Diễn viên Ng Kai Ming
Sở thích: Đọc sách, xem film, và TV
Những film Truyền Hình đã đóng:Yin Ai Zhi Ming (2008)
At Home with Love (TVB, 2006) - Ngôi Nhà Mật Ngọt
Healing Hands III (TVB, 2005) - Bàn Tay Nhấn Ái III
Purple Archives as Chen Si Han (2004)
The Raging Butterfly (Hubei TV, 2003)
Fate Twisters (TVB, 2003) - Cầu Vồng Trong Đêm
The Threat of Love 2 (TVB, 2003) - Mặt Trái Của Tình Yêu 2
Back to Square One (TVB, 2003) - Sau Tới Một Vương
The Legendary Siblings II (CTS, 2002)
Police Station No. 7 (TVB, 2002) - Đồn Cảnh Sát Số 7
A Taste of Love (TVB, 2001) - Vị Ngọt Tình Yêu
Heavenly Sword and Dragon Sabre (TVB, 2000) - Thanh Kiếm Đồ Long
Healing Hands II (TVB, 2000) - Bàn Tay Nhân Ái II
The Threat of Love (TVB, 2000) - Mặt Trái Của Tình Yêu
A Loving Spirit (TVB, 1999) - Một Tinh Thân Thương Yêu
Healing Hands (TVB, 1998) - Bàn Tay Nhân Ái
File of Justice V (TVB, 1997)
Outburst (TVB, 1996) - Sự Bùng Nổ
When Gordon Met Elaine (TVB, 1994)
The Good Fella from Temple Street (ATV, 1991)
Book and Sword as Yu Yu Tong (TVB, 1987)
The Grand Canal (TVB, 1987) - Vĩ Đại
A Taste of Bachelorhood (TVB, 1986) - Một Cảm Giác Sống Độc Thân
The Duke of Mount Deer (TVB, 1984)
Những film Điện Ảnh đã đóng:The Innocent Interloper (1986)
Chicken and Duck Talk (1988)
Crazy Companies 2 (1988)
Picture of a Nymph (1988)
The Black Wall (1989)
I am Sorry (1989)
In Between Loves (1989)
Lost Souls (1989)
The Nobles (1989)
What a Small World (1989)
Kawashima Yoshiko (1990)
When East Meets West (1990)
Lethal Panther (1991)
Mainland Dundee (1991)
Sex and Zen (1991)
To Be Number One (1991)
Centre Stage (1992)
Dragon Inn (1992)
Evil Black Magic (1992)
Second To None (1992)
The Complicated Raping Case (1993)
Endless Nightmare (1993)
He Ain't Heavy, He's My Father (1993)
The Magic Crane (1993)
The Street Car Named Desire (1993)
The Supreme Winner (1993)
The Underground Banker (1993)
Bloody Beast (1994)
A Chinese Torture Chamber Story (1994)
Hail the Judge (1994)
Our Neighbor Detective (1994)
Dr. Mack (1995)
A Fake Pretty Woman (1995)
Hope (1995)
New Tenant (1995)
Those Were the Days (1995)
My Heart Will Go On (1999)
When a Man Loves a Woman (2000)
Every Dog Has His Date (2001)
Sai Kung Story (2003)[V]
Mr. 3 Minutes (2006)
Thời thơ ấu của Ngô Khải Hoa
Ngô Khải Hoa là con thứ 2 trong một gia đình có 4 anh em. Khi anh mới vừa chào đời, bố tìm một ông thầy tướng số về xem và đặt tên cho anh. Nào ngờ ông thầy phán rằng số anh xung khắc với người cha nên từ đó trở đi bố anh luôn giữ khoảng cách với con. Cả nhà ngồi ăn cơm vui vẻ ở phòng trên thì Ngô Khải Hoa phải ở nhà sau ăn cơm chung với người làm. Không được bố mẹ thương yêu chiều chuộng, còn phải dùng lại những món đồ chơi cũ mà anh trai đã bỏ. Chính sự thiếu thốn tình cảm nơi cha mẹ từ bé đó đã tạo cho anh một tính cách trầm lặng và tự ti. Ở trường học tuy anh ít nói nhưng cũng rất quậy, hay giật đồ chơi của bạn còn đe doạ chúng không được mách cô giáo. Thành tích học tập của Ngô Khải Hoa thì được xét vào danh sách yếu kém nhất trường.
Vào năm 12 tuổi, Ngô Khải Hoa có ý định bỏ nhà ra đi nhưng anh không dám đi một mình nên đã rủ anh trai và hai đứa em đón xe đến nhà bà nội chơi. Biết chuyện, người bố rất tứcgiận, ông quyết định để anh ở lại sống cùng bà nội. Lòng Ngô Khải Hoa đau như cắt khi anh nhận ra rằng mình chỉ là một đứa con thừa. Nhưng hạnh phúc cũng đã mỉm cười với Ngô Khải Hoa, anh được bà nội và các cô chú yêu thương chiều chuộng, một tình thương mà anh cứ nghĩ mãi mãi không bao giờ mình có thể nhận được. Tính cách của anh dần thay đổi, tự tin hơn, ngoan ngoãn hơn.
Khởi Nghiệp
Ngô Khải Hoa và anh trai Ngô Khải Minh cùng sang Anh du học khi mới 13 tuổi. Những tháng ngày sống bên Anh , Ngô Khải Hoa có cơ hội tiếp xúc với nghệ thuật, anh làm công tác hậu trường cho một đoàn kịch nghệ. Trước khi chuẩn bị bướcvào trường Đại học Kiến trúc, Ngô Khải Hoa trở về HongKong nghỉ hè đúng lúc Đài truyền hình TVB mở lớp đào tạo diễn viên khoá 12, và anh đã tham gia thử. Vượt qua 3000 thí sinh lọt vào danh sách 15 thí sinh trúng tuyển cùng với : Lưu Gia Linh, Ngô Quân Như, Tăng Hoa Thiên, Đào Đại Vũ, Ngô Trấn Vũ, Lưu Thanh Vân....
1982, anh chính thức gia nhập TVB và bắt đầu với những vai phụ không được ai biết đến.Thời gian trôi qua khiến anh cảm thấy chán nản. 1983, đạo diễn Lý Tuệ Dân mời Ngô Khải Hoa vào vai nam thứ chính trong bộ phim Ma vực đào nguyên hợp tác cùng Lưu Đức Hoà. Lúc đầu anh còn e dè vì cho rằng vai phản diện sẽ làm ảnh hưởng hình tượng của bản thân nhưng rồi anh đã bị thuyết phục vì đây là một cơ hội tốt anh không thể bỏ qua. Nhờ vai diễn này Ngô Khải Hoa đã được TVB để mắt tới và trở thành Tiểu sinh của hãng, và cũng từ đó anh bị đóng khung trong những vai phản diện qua các bộ phim như : Thuyết đường, Lưu manh đại hạnh, Hán sở tranh hùng...Trong 5 năm , Ngô Khải Hoa tham gia hơn 15 phim truyền hình. Sau khi hoàn thanh vai diễn trong bộ phim Lão tử vạn tuế vào năm 1987 thì cũng là lúc anh kết thúc hợp đồng 5 năm với TVB.
Ra đi và trở về
Rời khỏi phim trường , Ngô Khải Hoa có một cảm giác chán nản và hụt hẫng vì anh không tìm được chỗ đứng trên thị trường. Đúng lúc ấy Ngô Khải Hoa gặp và quen với một cô gái Thái Lan. Anh quyết định rời Hong Kong sang Thái Lan sinh sống và lập gia đình. Tại Thái, anh mở một nhà hàng chuyên bán lẩu sống của Thái . Sau năm 5 năm cuộc hôn nhân tan vỡ. Anh trở về Hong Kong, quay lại với mái nhà TVB bằng bộ phim Bùng Nổ hợp tác cùng Ôn Triệu Luân, Tuyên Huyên. Từ đó anh luôn đảm nhận những vai chính diện , thay đổi hoàn toàn hình tượng phản diện trước đây tạo cho khán giả một cảm giác hoàn toàn mới.
Nguồn: Dan